Hàn Quốc Và Ghana Ai Mạnh Hơn Hơn Không

Hàn Quốc Và Ghana Ai Mạnh Hơn Hơn Không

Chi tiêu quân sự: Mỹ vẫn đứng đầu thế giới và gấp 3 lần Trung Quốc

So sánh các tàu khu trục cỡ lớn

Khu trục hạm mẫu 055 mới nhất của Trung Cộng vừa được đưa vào biên chế với 3 tàu, tải trọng khoảng 12,500 tấn, được trang bị 112 ống phóng hỏa tiễn, có thể mang theo hỏa tiễn phòng không, hỏa tiễn chống hạm, hỏa tiễn công kích đối đất và ngư lôi chống tàu ngầm. Mẫu 055 tương đương với phiên bản phóng to của Tàu khu trục 052D, bắt chước Tàu khu trục lớp Burke của quân đội Hoa Kỳ.

Nhật Bản có 2 tàu khu trục lớp Maya tải trọng 10,250 tấn với 96 ống phóng hỏa tiễn thẳng đứng; 2 tàu khu trục lớp Atago trọng tải 10,000 tấn với 96 ống phóng hỏa tiễn thẳng đứng; và 4 tàu khu trục lớp Kongō trọng tải 9485 tấn với 90 ống phóng hỏa tiễn thẳng đứng, được trang bị hỏa tiễn tiêu chuẩn RIM-66, hỏa tiễn phòng không RIM-161, cũng như hỏa tiễn chống hạm Harpoon, loại mới nhất được trang bị hỏa tiễn tiêu chuẩn RIM-174, nhưng không có hỏa tiễn tấn công mặt đất. 8 tàu khu trục này đều được trang bị Hệ thống Chiến đấu Aegis, có tính năng tương tự như các tàu khu trục lớp Burke của Hoa Kỳ và sở hữu khả năng đánh chặn hỏa tiễn. Nhật Bản cũng là quốc gia có nhiều tàu được trang bị Hệ thống Chiến đấu Aegis nhất ngoài Hoa Kỳ.

Trung Cộng đã đóng lô đầu tiên của Khu trục hạm mẫu 055 với 8 tàu, sau khi tất cả chúng được đưa vào phục vụ, số lượng tàu khu trục với tải trọng 10,000 tấn của Trung Cộng mới bằng với của Nhật Bản. Tính năng của các tàu chiến Trung Cộng không thể so sánh được với các tàu của Nhật Bản, sự khác biệt lớn nhất nằm ở radar, Hệ thống Chiến đấu Aegis và khả năng đánh chặn hỏa tiễn.

Khả năng chống tàu ngầm của tàu khu trục Trung Cộng vẫn còn hạn chế, ngược lại, khả năng chống tàu ngầm của các tàu Nhật Bản được trang bị Hệ thống Chiến đấu Aegis tương đương với khả năng của quân đội Hoa Kỳ. Tàu khu trục lớp Asahi (Mặt trời mọc) của Nhật Bản. (Ảnh: Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản) Tàu khu trục mẫu 052D của Trung Cộng. (Ảnh: Mark Schiefelbein/AFP/Getty Images)

So sánh các tàu khu trục cỡ trung

Khu trục hạm chủ lực hiện tại của Trung Cộng là 052D, với 17 tàu đang hoạt động. Nó có tải trọng 7,500 tấn và được trang bị 64 ống phóng hỏa tiễn, bao gồm hỏa tiễn phòng không, chống hạm và chống tàu ngầm, không có hỏa tiễn tấn công mặt đất.

Mẫu 052C cũ được Trung Cộng đóng 6 tàu với 48 ống phóng hỏa tiễn, chỉ có hỏa tiễn phòng không và hỏa tiễn chống hạm. Các loại khu trục hạm được sản xuất thử nghiệm trước đây chưa thể đáp ứng yêu cầu nên không được sản xuất hàng loạt. Trung Cộng đã cố gắng bắt chước tàu khu trục hiện đại nhập khẩu từ Nga, nhưng nhận thấy rằng nó đã lỗi thời nên cuối cùng bắt chước các tàu thuộc Hệ thống chiến đấu Aegis của Mỹ.

Hệ thống radar và chiến đấu của những tàu khu trục này không tốt bằng chiếc 055 mới nhất, và thiếu khả năng chống hỏa tiễn và chống tàu ngầm.

Các tàu khu trục hạng trung của Nhật Bản bao gồm 2 Tàu khu trục lớp Asahi, 4 Tàu khu trục lớp Akizuki với tải trọng 6,800 tấn, 5 Tàu khu trục lớp Takanami với tải trọng 6,300 tấn và 9 Tàu khu trục lớp Murasame với tải trọng 6,200 tấn. Vũ khí chính của 20 tàu khu trục này là 32 ống phóng hỏa tiễn thẳng đứng, được trang bị hỏa tiễn RIM-162 ESSM với khả năng phòng không, đánh chặn hỏa tiễn, và cũng có thể trang bị hỏa tiễn chống tàu ngầm, 8 hỏa tiễn chống hạm, 01 phi cơ trực thăng. Các tàu khu trục này đều tham khảo các tàu thuộc Hệ thống Chiến đấu Aegis của Hoa Kỳ, nhưng chúng chưa được trang bị Hệ thống Aegis.

Nhật Bản còn có 8 Tàu khu trục lớp Asagiri đời đầu với tải trọng 5,200 tấn, đã được chuyển đổi thành các khinh hạm tuần dương ven biển.

Các tàu khu trục của Nhật Bản chủ yếu dùng để phòng không, chống hỏa tiễn, chống hạm và chống tàu ngầm. Thiết kế ban đầu đã xem xét đến việc đánh chặn các hỏa tiễn đạn đạo có thể phóng ra từ Triều Tiên.

Trong trường hợp xảy ra hải chiến giữa Trung Quốc và Nhật Bản, tính năng và số lượng của các tàu khu trục Trung Quốc không thể so sánh với các tàu khu trục của Nhật, đặc biệt là các tàu khu trục cỡ lớn. Các tàu khu trục của Trung Cộng tự vệ còn rất khó, chứ chưa nói đến hộ tống Hàng không mẫu hạm. Tàu ngầm lớp Sōryū (Rồng Xanh) của Nhật Bản. (Ảnh: Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản) Vào ngày 2/8/2000, một tàu ngầm lớp Kilo của Hải quân Trung Cộng đã có mặt tại Tổng bộ Hải quân Hạm đội Biển Bắc ở thành phố cảng Thanh Đảo. Hải quân Trung Cộng có rất nhiều tàu ngầm loại này. (Ảnh: Goh Chai Hin/AFP/Getty Images)

Trung Cộng có 7 tàu ngầm hạt nhân chiến lược mang hỏa tiễn Cự Lang-2, có thể đe dọa Nhật Bản về mặt lý thuyết, nhưng Trung Cộng có rất nhiều hỏa tiễn đạn đạo đối đất nên các tàu ngầm hạt nhân chiến lược sẽ chủ yếu nhằm vào Hoa Kỳ. Nhật Bản không có vũ khí hạt nhân và không có tàu ngầm hạt nhân chiến lược.

Trung Cộng có 8-9 tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân, mẫu 093B/G mới nhất có tải trọng khoảng 7,000 tấn và mẫu 091 trước đó có tải trọng khoảng 5,500 tấn. Những chiếc tàu ngầm này có khả năng tác chiến xa bờ, một số chiếc được bố trí ở căn cứ Thanh Đảo. Tuy nhiên, Biển Hoa Đông là vùng nước nông, tàu ngầm dễ bị phát hiện ngay khi điều động, nó rất khó tránh khỏi sự truy lùng của phi cơ tuần tra chống ngầm và hải quân của Nhật Bản.

Trung Cộng có nhiều tàu ngầm tấn công chạy bằng động cơ thông thường hơn, chủ yếu được sử dụng để phòng thủ ven biển. Chúng hầu như không thể đi đến các vùng biển của Nhật Bản vì âm thanh to hơn, dễ bị phát hiện hơn.

Nhật Bản là quốc gia không sử dụng vũ khí hạt nhân, chỉ có các tàu ngầm tấn công chạy bằng động cơ thông thường. Nhật Bản có 11 Tàu ngầm lớp Sōryū với tải trọng 4,200 tấn, 9 Tàu ngầm lớp Oyashio với tải trọng 3,500 tấn và mẫu mới nhất là Tàu ngầm lớp Taigei với 1 chiếc đang hoạt động. Công nghệ tàu ngầm của Nhật Bản đứng đầu thế giới, tàu ngầm của Nhật chạy bằng pin lithium-ion, hiệu quả im lặng không quốc gia nào sánh bằng.

Cơ hội chạm trán trực tiếp giữa tàu ngầm Trung Quốc và tàu ngầm Nhật Bản là không lớn, nhưng tàu ngầm Nhật Bản là một mối đe dọa đáng kể đối với các chiến hạm cỡ lớn của Trung Cộng. Mối đe dọa của tàu ngầm Trung Cộng đối với hạm đội Nhật Bản là tương đối nhỏ, vì Nhật Bản luôn tham chiếu trang thiết bị và các bài huấn luyện chống tàu ngầm của quân đội Hoa Kỳ.

Trung Cộng vừa đưa vào hoạt động Tàu tấn công đổ bộ mẫu 075, và hiện có 8 Tàu tấn công đổ bộ mẫu 071. Số lượng tàu đổ bộ này là không đủ để dùng trong cuộc chiến tấn công Đài Loan, ngoài ra còn dễ trở thành bia ngắm nên sẽ không dám mạo hiểm xuất kích đến Nhật Bản.

Nhật Bản có 4 Tàu hộ tống đa chức năng và 3 Tàu đổ bộ lớp Ōsumi, nhưng Nhật Bản không có Thủy quân lục chiến, chỉ có một nhóm cơ động đổ bộ cỡ nhỏ dùng để hỗ trợ phòng thủ trên đảo và phản công. Sẽ rất khó cho Trung Quốc và Nhật Bản để thực hiện các cuộc tấn công đổ bộ vào lúc này.

Trung Cộng có 30 khinh hạm mẫu 054 với tải trọng 4,000 tấn và 72 khinh hạm mẫu 056 với tải trọng 1,300-1,500 tấn. Các tàu này chủ yếu dùng để phòng thủ ven biển, ít có khả năng tham gia vào các trận hải chiến quy mô lớn với Nhật Bản. Các khinh hạm ven biển của Nhật Bản có lẽ cũng sẽ không rời khỏi đường bờ biển.

Nơi mà hải quân Trung Cộng và Nhật Bản có thể xảy ra xung đột là Biển Hoa Đông, được dự đoán là sẽ diễn ra cuộc đọ sức giữa các khu trục hạm chủ lực, Hải quân Trung Cộng hiện đang bất lợi hơn. Trong tương lai, Hàng không mẫu hạm hạng nhẹ có thể đối chiến với Hàng không mẫu hạm tiêu chuẩn, Trung Cộng càng khó có thể có ưu thế. Hạm đội Bắc Dương thành lập vào thời nhà Thanh là hạm đội đầu tiên có tàu bọc sắt, nhưng ngay cả việc tích trữ đạn dược vẫn chưa được tiêu chuẩn hóa, cũng chưa hiểu rõ chiến thuật thủy chiến và tham nhũng nhiều. Hải quân của Trung Cộng thậm chí còn tệ hơn, nếu mạo hiểm tham chiến, rất có khả năng sẽ lặp lại cục diện của Cuộc chiến Trung-Nhật vào năm 1894-1895. Chiến cơ F-35A (Tia chớp) của Nhật Bản. (Ảnh: Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản) Chiến cơ J-16 của Trung Cộng. (Ảnh: Bộ Quốc phòng Đài Loan)

Lực lượng Phòng vệ Trên không của Nhật có khoảng 50,000 người đang tại ngũ và có ít nhất 21 phi cơ chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5 F-35A Lightning II. Nhật đã đặt hàng tổng cộng 105 chiếc F-35A và 42 chiếc F-35B.

Nhật Bản có 200 phi cơ tiêm kích chiếm ưu thế trên không McDonnell Douglas F-15 Eagle (Đại bàng), trong đó có 45 phi cơ huấn luyện; 88 phi cơ tiêm kích đa năng Mitsubishi F-2 tự sản xuất dựa trên cơ sở chiếc F-16 Fighting Falcon (Chim cắt huyền thoại), trong đó có 26 phi cơ huấn luyện. Nhật Bản cũng có 18 phi cơ cảnh báo sớm do Hoa Kỳ sản xuất, 5 chiến cơ điện tự sản xuất, 6 phi cơ tiếp dầu do Hoa Kỳ sản xuất và 200 phi cơ huấn luyện; không có phi cơ ném bom tấn công.

Lực lượng Phòng vệ Trên không của Nhật Bản có chiến thuật rõ ràng, chủ yếu là bảo vệ không phận của mình và tấn công các mối đe dọa trên biển. Không có lý do gì để chiến đấu cơ của Nhật tiếp cận đường bờ biển của Trung Quốc. Xung đột giữa Lực lượng Không quân của hai bên chỉ có thể xảy ra nếu Trung Cộng mạo hiểm tấn công.

Trung Cộng có khoảng 70 phi cơ tiêm kích đa năng Su-30 và 24 chiếc Su-35 được nhập khẩu từ Nga, cùng hơn 200 bản sao của chiếc J-16 có thể đã được sản xuất. Các phi cơ này có thể tiếp cận không phận Nhật Bản và hỗ trợ các trận hải chiến ở biển Hoa Đông và biển Hoàng Hải. Nếu phải đối mặt với F-35 Lightning II của Nhật thì chúng không có cơ hội chiến thắng, nếu cận chiến với F-15 Eagle của Nhật thì có thể có cơ hội, còn chiến đấu ở cự ly xa thì sẽ rơi vào thế hạ phong.

Trung Cộng còn có phi cơ tiêm kích J-11, là mẫu nhái của Su-27, có thể bay gần không phận Nhật Bản và hỗ trợ cho các trận hải chiến, nhưng nó cũng không có lợi thế vì thiếu sự hỗ trợ của phi cơ tiếp dầu. phi cơ tiêm kích hạng nhẹ J-10 của Trung Cộng có tầm bay ngắn nên không thể tham chiến ngoài biển. phi cơ ném bom H-6 của Trung Cộng có thể vươn tới Nhật Bản, nhưng tấn công khi thiếu chiến đấu cơ hộ tống cũng tương đương với hành vi tự sát.

phi cơ tiêm kích tàng hình thế hệ thứ năm J-20 của Trung Cộng hiện được trang bị cho hai lữ đoàn, người ta đoán rằng nó sẽ tiếp tục tập trung vào biểu diễn.

Radar chiến đấu cơ kiểu Mỹ mà Nhật sở hữu có tính năng tốt hơn và sở trường hơn trong tác chiến cự ly xa, điều này đã được kiểm chứng nhiều lần trong thực chiến. Tính năng của radar trên các chiến cơ của Trung Cộng chưa bao giờ được thử nghiệm trong thực chiến, các bài tập huấn luyện mà Trung Cộng công khai vẫn là tác chiến cự ly gần. Các phi công của Nhật đã nhiều lần huấn luyện với quân đội Hoa Kỳ, khả năng thực chiến của họ sẽ trội hơn một bậc.

Nhật Bản có Hệ thống phòng thủ hỏa tiễn Patriot PAC-3 dùng để đánh chặn hỏa tiễn đạn đạo ở giai đoạn cuối, và cũng có thể tấn công phi cơ đối phương. Việc đánh chặn hỏa tiễn ở giai đoạn giữa do các tàu khu trục có lắp Hệ thống Chiến đấu Aegis đảm nhiệm.

hỏa tiễn tầm trung Đông Phong 26 và Đông Phong 21 của Trung Cộng có thể tấn công lãnh thổ Nhật Bản, bao gồm cả tàu chiến, nhưng vẫn chưa rõ liệu chúng có thể xuyên thủng Hệ thống Chiến đấu Aegis và Hệ thống phòng thủ hỏa tiễn Patriot hay không.

Nhật Bản đang cố gắng tăng tầm bắn của hỏa tiễn lên 900 km, mục tiêu trong tương lai là 1,500 km. Quân đội Hoa Kỳ cũng dự kiến ​​sẽ triển khai hỏa tiễn siêu thanh tầm trung loại mới nhất ở Nhật Bản.

Theo “Hiệp ước An ninh Hoa Kỳ-Nhật Bản”, nếu Trung Cộng sử dụng hỏa tiễn để tấn công Nhật Bản, quân đội Hoa Kỳ sẽ nhanh chóng tiến hành một cuộc phản công bằng hỏa tiễn và cũng có thể tấn công các căn cứ hỏa tiễn của Trung Cộng bằng lực lượng không quân. Trung Cộng có lẽ sẽ không dám sử dụng vũ khí hạt nhân để tấn công Nhật Bản, vì nó sẽ dẫn tới một cuộc phản công hạt nhân từ phía Hoa Kỳ, trong khi Trung Cộng vẫn chưa có một hệ thống phòng thủ hỏa tiễn hoàn chỉnh.

Quân đội của Trung Cộng có gần 1 triệu người, nhưng lại không thể dùng chiến thuật biển người để tấn công Nhật Bản. Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản chỉ có khoảng 150,000 người với trang thiết bị hữu hạn, nhưng Lục quân hai nước rất khó gặp nhau. Nhật Bản chủ yếu dựa vào Hải quân và Lực lượng phòng không để chiến đấu, tuyến phòng thủ thứ ba là hỏa tiễn chống hạm đối đất. So với Nhật Bản, Hải quân và Không quân của Trung Cộng vẫn còn một khoảng cách nhất định.

Nhật Bản là một trong số ít các quốc gia phát triển trên thế giới chỉ tập trung vào quốc phòng, cộng thêm với hệ thống phòng thủ của Hoa Kỳ, khả năng phòng thủ thực tế trên biển và trên không của Nhật nên được xếp vào vị trí thứ hai trên thế giới. Quân đội Nhật Bản không tham chiến sau Thế chiến thứ hai nhưng đã huấn luyện với quân đội Hoa Kỳ từ lâu, khả năng chiến đấu thực tế là cao hơn so với quân đội của Trung Cộng.

Quân nhân tại ngũ của Nhật Bản chỉ có khoảng 250,000 người, số lượng quân nhân dự bị là khoảng 55,000 người. Ngân sách quân sự của Nhật Bản là 51.7 tỷ USD, chiếm chưa đến 1% GDP và vẫn còn khá nhiều không gian để phát triển. GDP của Nhật Bản năm 2020 đạt gần 5,279.8 tỷ USD, đứng thứ ba trên thế giới, với GDP bình quân đầu người vượt quá 42,000 USD.

Trung Cộng có thể tiếp tục khiêu khích Nhật Bản vì Nhật Bản chỉ có thể phòng thủ chứ không thể tấn công. Tuy nhiên, với sức mạnh công nghệ và kinh tế của Nhật Bản, dù cho là khiêu khích quân sự, chạy đua vũ trang hay mạo hiểm khai chiến, Trung Cộng có thể đã chọn nhầm đối thủ.

Do Chu Điền, Cao Nghĩa thực hiện Xuân Hoàng biên dịch Quý vị tham khảo bản gốc trên Epoch Times Hoa ngữ

(Vietnamplus.vn) Hoạt động xuất khẩu hàng hóa từ Trung Quốc trong tháng 3/2024 đã giảm 7,5% so với cùng kỳ năm 2023, đánh dấu mức giảm lớn nhất kể từ tháng 8/2023.

Vận chuyển hàng hóa tại cảng ở thành phố Thiên Tân, Trung Quốc. (Ảnh: THX/TTXVN)

Dữ liệu mới nhất từ Tổng cục Hải quan Trung Quốc, xuất khẩu tháng 3/2024 của nước này giảm mạnh, trong khi nhập khẩu cũng bất ngờ giảm mạnh hơn so với dự báo của thị trường. Kết quả này càng nhấn mạnh nhiệm vụ mà các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc phải nỗ lực thúc đẩy sự phục hồi nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Cụ thể, hoạt động xuất khẩu hàng hóa từ Trung Quốc trong tháng 3/2024 đã giảm 7,5% so với cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu mức giảm lớn nhất kể từ tháng 8/2023, so với dự báo giảm 2,3% trong cuộc thăm dò ý kiến của các nhà kinh tế của hãng tin Reuters (Vương quốc Anh).

Hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc tăng 7,1% trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 02/2024. Trong khi đó, nhập khẩu của Trung Quốc cũng bất ngờ giảm 1,9% trong tháng 3/2024, sau khi tăng trưởng 3,5% trong hai tháng đầu năm. Kết quả này cũng đi ngược với dự báo tăng 1,4% của giới phân tích. Như vậy, Trung Quốc đạt thặng dư thương mại 58,55 tỷ USD trong tháng 3/2024, so với mức thặng dư 70,2 tỷ USD dự kiến trong cuộc thăm dò của Reuters.

Diễn biến ngoài dự kiến của cả xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc trong tháng 3/2024 chỉ ra rằng Trung Quốc sẽ cần kích thích chính sách toàn diện và có mục tiêu hơn để đáp ứng mức tăng trưởng của mình. Ông Bruce Pang, nhà kinh tế trưởng tại Công ty dịch vụ bất động sản Jones Lang Lasalle, cho biết: “Sẽ còn một chặng đường để hoạt động ngoại thương của Trung Quốc quay trở lại làm động lực tăng trưởng cho nền kinh tế lớn thứ hai thế giới”.

Giữa bối cảnh Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (Fed) và các quốc gia phát triển khác không cho thấy sự cấp thiết phải cắt giảm lãi suất, các nhà sản xuất Trung Quốc có thể phải đối mặt với một giai đoạn thử thách tiếp theo khi họ cố gắng đẩy mạnh việc bán hàng hóa ở nước ngoài.

Các nhà phân tích cũng lưu ý về tình trạng dư thừa năng lực của Trung Quốc trong một số ngành công nghiệp có thể mang lại nhiều rào cản thương mại hơn cho trung tâm sản xuất của thế giới.

Trong khi đó, một khảo sát do tư nhân thực hiện cho thấy tăng trưởng hoạt động dịch vụ tại Trung Quốc trong tháng 3/2024 đã tăng tốc, khi các hoạt động kinh doanh mới gia tăng ở mức nhanh nhất trong ba tháng. Đây là dấu hiệu cho thấy tâm lý kinh doanh đang khởi sắc, tạo điều kiện cho sự phục hồi của nền kinh tế. Theo đó, Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành dịch vụ Trung Quốc do Caixin và S&P Global tổng hợp đã tăng từ mức 52,5 trong tháng 2/2024 lên 52,7 vào tháng 3/2024, đánh dấu tháng thứ 15 liên tiếp chỉ số này ở trên ngưỡng 50 điểm.

Nhờ nhu cầu cơ bản được cải thiện và nỗ lực thúc đẩy số lượng đơn đặt hàng mới, tốc độ mở rộng hoạt động kinh doanh mới trong ngành dịch vụ Trung Quốc đạt mức nhanh nhất kể từ tháng 12/2023. Điều đó cũng thúc đẩy niềm tin kinh doanh khi chỉ số phụ về triển vọng hoạt động tương lai tăng lần đầu tiên sau ba tháng, giữa bối cảnh có những hy vọng rằng các dòng sản phẩm mới, kế hoạch mở rộng và tăng ngân sách khách hàng sẽ giúp thúc đẩy doanh số bán hàng. Tuy nhiên, doanh số bán hàng khả quan hơn và niềm tin kinh doanh không thể chuyển thành tỷ lệ tuyển dụng cao hơn.

Chỉ số việc làm của ngành dịch Trung Quốc đã giảm tháng thứ hai liên tiếp, mặc dù tỷ lệ sa thải đã giảm so với tháng 2/2024. Theo những người tham gia khảo sát, việc nhân viên từ chức cùng các đợt sa thải để cải thiện năng suất đã dẫn đến số lượng lao động trong ngành này giảm.

Dù vậy, cùng với kết quả khảo sát ngành chế tạo tốt hơn mong đợi, số liệu bổ sung thêm bằng chứng cho thấy một số bộ phận của nền kinh tế Trung Quốc đang lấy lại động lực trong quý đầu tiên của năm 2024. Trước đó, Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc (NBS) cho hay các công ty trong lĩnh vực công nghiệp nước này đã đạt lợi nhuận cao hơn trong những tháng đầu năm 2024, củng cố các dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang dần phục hồi bất chấp tình trạng trì trệ kéo dài trong lĩnh vực bất động sản.

Theo NBS, lợi nhuận của các công ty công nghiệp Trung Quốc đã tăng 10,2% trong hai tháng đầu năm 224 so với cùng kỳ năm trước đó, sau khi lợi nhuận giảm 2,3% trong cả năm 2023. Sự gia tăng này diễn ra sau các chỉ số lạc quan hồi đầu tháng này cho thấy sự ổn định ở nền kinh tế lớn nhất châu Á. Tuy nhiên, mức tăng chung vẫn bị hạn chế do tình trạng trì trệ kéo dài trong lĩnh vực bất động sản Trung Quốc. Điều này đã cho thấy sự khác biệt trong quá trình phục hồi sau đại dịch của đất nước.

Nhà kinh tế trưởng Lynn Song của ngân hàng ING cho biết, đà phục hồi của ngành sản xuất nếu tiếp tục được duy trì, sẽ góp phần giúp đạt được mục tiêu tăng trưởng năm 2024, song vẫn cần nhiều chính sách hỗ trợ hơn để duy trì đà tăng trưởng và phục hồi. Dữ liệu cho thấy các công ty nhà nước ghi nhận lợi nhuận tăng 0,5% trong tháng 01 - 02/2024, lợi nhuận của các công ty nước ngoài đạt mức tăng 31,2%, trong khi các công ty thuộc khu vực tư nhân ghi nhận mức tăng 12,7%.