Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Ngân Hàng Bidv

Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Ngân Hàng Bidv

1. Nghiêm túc tuân thủ các yêu cầu luật định, các định chế và các yêu cầu khác về chất lượng, an toàn thực phẩm, năng lượng và các khía cạnh môi trường có liên quan đến sản xuất và cung cấp sản phẩm Bia đến người tiêu dùng.

Lịch sử hình thành và Phát triển

Công ty Cổ phần Dược phẩm Thái Minh chính thức đi vào hoạt động ngày 15/2/2012 với 12 nhân viên ban đầu.

Tiền thân của Thái Minh là Phòng Marketing trực thuộc công ty TNHH Tư vấn Y Dược Quốc tế (IMC) với người sáng lập là Ths.Ds Nguyễn Quang Thái.

Ấp ủ ý tưởng thay đổi thói quen tiêu dùng của người Việt Nam trong ngành Dược từ các sản phẩm nhập ngoại sang các sản phẩm của Việt Nam, dựa trên những sản phẩm có chất lượng vượt trội, được nghiên cứu kỹ lưỡng, được làm Marketing một cách chuyên nghiệp và được bán rộng rãi trên thị trường, công ty Thái Minh được thành lập để trở thành nơi hội tụ những yếu tố cốt lõi trên.

Nhờ sự nỗ lực và tinh thần học hỏi sáng tạo không ngừng, Thái Minh đã từng bước trưởng thành và lớn mạnh. Doanh số liên tục tăng trưởng, thị phần được mở rộng. Hiện tại Thái Minh đã phát triển được trên 10 sản phẩm trong top đầu thị trường, xây dựng được hệ thống phân phối chuyên nghiệp trên cả nước với 10.000 điểm bán khắp các tỉnh thành.

Tháng 10 năm 2019, Dược phẩm Thái Minh đã khai trương nhà máy Thái Minh Công nghệ cao (ThaiMinh HiTech), với dây truyền sản xuất TPCN, mỹ phẩm đạt chuẩn GMP tại KCN Thạch Thất – Quốc Oai, Hà Nội.

Thái Minh Hi-tech cũng là một trong những nhà máy dược Việt Nam đặc biệt đầu tư cho phòng kiểm nghiệm. Đầu tháng 2 năm 2021, phòng kiểm nghiệm của Thái Minh Hi-tech đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 17025 – tiêu chuẩn cao nhất dành cho phòng kiểm nghiệm. Đây là bước quan trọng trong tiến trình Dược phẩm Thái Minh đảm bảo chất lượng mọi lô hàng, hướng tới xuất khẩu ra nước ngoài và được bạn bè quốc tế công nhận.

Thời Hùng Vương với tên nước Văn Lang, Vĩnh Phúc nằm trong địa phận bộ Văn Lang, trên hợp lưu của ba con sông: Sông Thao, Sông Đà, Sông Lô…

Năm 257- 110 TCN, địa bàn Vĩnh Phúc nằm trong nước Âu Lạc của Thục An Dương Vương. Tên gọi vùng đất này theo thổ âm có thể là ” M’ rinh hay M’ Linh, sau này được phiên âm thành Mê Linh hay Mi Linh”.

Từ năm 111 TCN, nhà Hán xâm chiếm nước ta, chia làm ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Khi đó, dưới quận là huyện, và Vĩnh Phúc bấy giờ (cho tới năm 243 SCN ) nằm trong huyện Mê Linh.

Đến thế kỷ thứ III, Vĩnh Phúc bị xé lẻ và nằm trong 2 huyện Gia Ninh và Mê Linh (thuộc quận Tân Xương). Tới thế kỷ VI (thời nhà Tuỳ),Vĩnh Phúc nằm trong địa phận 2 huyện Gia Ninh và Tân Xương…

Từ đó đến thế kỷ XIII,Vĩnh Phúc trải qua nhiều biến động. Từ thế kỷ XIII – XIV, nhà Trần vẫn chia nước thành các lộ; đến nhà Hồ lại đổi lộ thành trấn. Dưới lộ (hay trấn) là các phủ, dưới châu là huyện, dưới huyện là các xã. Lúc này, các huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phúc (thời Trần Mạt ), nằm trong ba trấn và lộ sau:

+ Lộ Đông Đô: Châu Tam Đới (Vĩnh Tường) có huyện Yên Lạc, huyện Yên Lãng và huyện Lập Thạch.+ Lộ Bắc Giang: Châu Bắc Giang có huyện Tân Phúc, châu Vũ Ninh có huyện Đông Ngàn (gồm huyện Kim Anh, huyện Từ Sơn).+ Trấn Tuyên Quang có huyện Dương. Cho tới cuối đời thời Hậu Lê đầu nhà Nguyễn (đầu thế kỉ XIX ) vùng đất Vĩnh Phúc lại nằm trong các trấn sau:+ Trấn Kinh Bắc: Phủ Từ Sơn có huyện Đông Ngàn, phủ Bắc Hà có huyện Tân Phúc, huyện Kim Hoa.+ Trấn Sơn Tây: Phủ Tam Đới gồm các huyện Bạc Hạc, Lập Thạch, Yên Lạc, Yên Lãng; Phủ Đoan Hùng có huyện Dương.+ Trấn Thái Nguyên: Phủ Phú Bình có huyện Bình Tuyền.

Dưới triều Nguyễn (thế kỉ XIX), vua Minh Mệnh đổi trấn thành tỉnh, phạm vi Vĩnh Phúc lại nằm vào 3 tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh và Thái Nguyên.

Đến cuối thế kỉ XIX, nhằm thực hiện chính sách chia để trị, thực dân Pháp tiếp tục chia cắt và xáo lộn các huyện, các xã ở Bắc Kỳ để thành lập các trung tâm cai trị mới.Theo đó, các tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên bị cắt xén bớt đi, các tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên lần lượt ra đời:

– Tỉnh Vĩnh Yên được thành lập ngày 29/12/1890. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử có những biến động nên mãi tới năm 1899, toàn quyền Pháp ở Đông Dương mới ban hành quyết định chính thức thành lập tỉnh Vĩnh Yên. Tuy vậy, qua nhiều lần xáo trộn, cuối cùng ngày 6/ 10/ 1901, tỉnh Vĩnh Yên mới ổn định với một phủ là Vĩnh Tường và 4 huyện Yên Lạc, Lập Thạch, Tam Dương, Bình Xuyên.

– Ngày 6/10/1901, Pháp thành lập tỉnh Phù Lỗ gồm phủ Đa Phúc, huyện Kim Anh và một phần huyện Đông Khê (cắt từ tỉnh Bắc Ninh ra), hợp với huyện Yên Lãng (tách từ tỉnh Vĩnh Yên ra), tỉnh lỵ đặt ở làng Phù Lỗ huyện Kim Anh.

Ngày 10/12/1903, tỉnh Phù Lỗ đổi tên thành tỉnh Phúc Yên.

Ngày 7/3/1913, tỉnh Phúc Yên đổi làm đại lý Phúc Yên, lệ thuộc tỉnh Vĩnh Yên.

Ngày 31/3/1923, Thống sứ Bắc Kỳ lại ra Nghị định lập lại tỉnh Phúc Yên, gồm hai phủ (Đa Phúc, Yên Lãng) và hai huyện (Kim Anh – Đông Anh) – Đây là tỉnh nhỏ nhất xứ Bắc Kỳ lúc bấy giờ .

* Tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập ngày 12/02/1950, trên cơ sở hợp nhất tỉnh Vĩnh Yên và tỉnh Phúc Yên.

Tỉnh Vĩnh Yên được thành lập ngày 29/12/1899. Địa bàn của tỉnh bao gồm huyện Bình Xuyên tách từ phủ Phú Bình tỉnh Thái Nguyên, toàn bộ phủ Vĩnh Tường gồm 5 huyện là Bạch Hạc, Lập Thạch, Tam Dương, Yên Lạc và phủ Yên Lãng tách từ tỉnh Sơn Tây. Năm 1901 phủ Yên Lãng tách khỏi tỉnh Vĩnh Yên nhập vào tỉnh Phù Lỗ.

Tỉnh Phúc Yên được thành lập ngày 06/10/1901 lúc đầu mang tên Phù Lỗ. Địa bàn tỉnh gồm 3 huyện cắt từ tỉnh Bắc Ninh sang là huyện Kim Anh, huyện Đông Khê (năm 1903 huyện Đông Khê đổi thành Đông Anh) và huyện Đa Phúc. Từ ngày 18/02/1904 tỉnh lỵ dời từ làng Phù Lỗ lên Tháp Miếu tổng Bach Trữ, Phúc Yên, từ đó tên tỉnh đổi tên từ Phù Lỗ sang tỉnh Phúc Yên.

Tháng 2/1950 tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên hợp nhất thành tỉnh Vĩnh Phúc. Khi hợp nhất tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích 1.715km2, dân cố 47 vạn người.

Từ khi tỉnh Vĩnh Phúc thành lập đến nay có nhiều lần thay đổi về địa giới hành chính:

– Năm 1955 huyện Phổ Yên tách khỏi tỉnh Thái Nguyên nhập vào Vĩnh Phúc, đến năm 1957 lại trở lại tỉnh Thái Nguyên.– Tháng 6/1957 thị trấn Bạch Hạc và tháng 7/1977 hai thôn Mộ Chu Hạ và Lang Đài của xã Bồ Sao huyện Vĩnh Tường chuyển về thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ.– Tháng 6/1961 huyện Đông Anh, xã Kim Chung, huyện Yên Lãng, thôn Đoài xã Phù Lỗ huyện Kim Anh tách khỏi Vĩnh Phúc chuyển về thành phố Hà Nội.– Tháng 2/1968 tỉnh Vĩnh Phúc hợp nhất với tỉnh Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú.

Trong thời gian là tỉnh Vĩnh Phú, tháng 10/1977 các huyện trong tỉnh hợp nhất thành huyện lớn. Trên phạm vi tỉnh Vĩnh Phúc cũ, huyện Kim Anh và Đa Phúc hợp nhất thành huyện Sóc Sơn. Huyện Vĩnh Tường và Yên Lạc hợp nhất thành huyện Vĩnh Lạc. Huyện Tam Dương và Lập Thạch hợp nhất thành huyện Tam Đảo. Huyện Yên Lãng và Bình Xuyên hợp nhất thành huyện Mê Linh (trong đó có cả Phúc Yên).

Tháng 12/1978 huyện Lập Thạch tách khỏi Tam Dương trở về huyện cũ Lập Thạch; huyện Bình Xuyên tách khỏi Mê Linh và nhập với Tam Dương thành lập huyện Tam Đảo mới.

Tháng 3/1979 hai huyện Sóc Sơn và Mê Linh chuyển về Hà Nội; tháng 10/1991 huyện Mê Linh lại tách khỏi Hà Nội trở về Vĩnh Phú.

Ngày 01/01/1996 huyện Vĩnh Lạc tách thành 2 huyện Vĩnh Tường và Yên Lạc.

Tháng 11/1996 Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ X đã ra Nghị định tách tỉnh Vĩnh Phú thành 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Thực hiện Nghị quyết trên, tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập và chính thức đi vào hoạt động từ 01/01/1997.

Tháng 9/1998 huyện Tam Đảo tách thánh 2 huyện Tam Dương và Bình Xuyên. Ngày 09/12/2003 Chính phủ ra Nghị định số 153/2003/NĐ-CP thành lập thị xã Phúc Yên và huyện Tam Đảo mới.

Ngày 01/12/2006 Chính phủ ra Nghị định số 146/2006/NĐ-CP thành lập thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.

Tính đến tháng 12/2006 sau nhiều lần thay đổi địa giới hành chính, tỉnh Vĩnh Phúc có 9 đơn vị hành chính trong đó có thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên và 7 huyện là: Lập Thạch, Tam Dương, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên, Tam Đảo, Mê Linh.

Vĩnh Phúc là vùng đất có bề dày lịch sử trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Con người và vùng đất nơi đây đã để lại một kho tàng di sản văn hoá phong phú và đặc sắc, đó là một tài sản vô giá của Vĩnh Phúc trong tiến trình phát triển của dân tộc.

Bên cạnh những di chỉ khảo cổ ở Lũng Hoà, Đồng Đậu, Thành Dên… khẳng định Vĩnh Phúc là một trong những vùng đất cổ, là trung tâm của nước Văn Lang xưa, nơi đây để lại nhiều di tích lịch sử và di sản văn hoá, tạo nên một nét độc đáo riêng.

Kết quả tổng kiểm kê năm 1998, Vĩnh Phúc có 967 di tích danh thắng trong đó có 287 đình, 122 đền, 95 miếu, 325 chùa. Xếp hạng quốc gia có 86 di tích; tiêu biểu là một số di tích sau:

Thị trấn Hương Canh huyện Bình Xuyên có 3 ngôi đình ở 3 làng là Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Hường. Cả 3 ngôi đình đều thờ 5 nhân vật được phong “thần” là Ngô Xương Ngập (con trưởng Ngô Quyền), Ngô Xương Văn (con thứ Ngô Quyền), Đỗ Cảnh Thạc (một tướng của Ngô Quyền), bà Linh Quang Thái Hậu (vợ Ngô Quyền) và một Ả nữ vương được phong là Thị Tàng Công Chúa.

Cụm đình Hương Canh được xây dựng vào cuối thế kỷ XVII. Tất cả các cột đều làm bằng gỗ lim, giữa cột cái và cột quân tông vì chính toà đại đình liên kết với nhau kiểu “cốn chồng rường” với dày đặc các mảng trạm khắc. Kiến chúc cụm đình Hương Canh thuộc loại hình kiến chúc mở, phù hợp với các hoạt động lễ hội của làng.

Đình làng Thổ Tang, xã Thổ Tang huyện Vĩnh Tường xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII theo kiểu chữ đinh (J) gồm phần hậu cung và một toà 5 gian 2 dĩ. Đình thờ Lân Hổ Đô Thống Đại Vương, một vị tướng có công đánh giặc Nguyên Mông thời Trần. Đình Thổ Tang có dáng dấp cổ nhất trong số các ngôi đình còn lại hiện nay ở Vĩnh Phúc và cũng là ngôi đình đậm đà tính nhân dân trong chạm trổ trên gỗ, vừa có giá trị mỹ thuật, vừa có giá trị tư tưởng cao, tiêu biểu là bức “ngày hội xuống đồng” chạm trên kẻ nghé ở hè đình ngay cửa ra vào dài 1,5m, rộng 0,7m. Đình Thổ Tang được Bộ Văn hoá ghi vào sổ “danh mục di tích lịch sử văn hoá” ngày 13/01/1964 và cấp bằng “Di tích lịch sử văn hoá” ngày 17/02/1990.

* Đền thờ Trần Nguyễn Hãn tả tướng quốc:

Đền thờ được xây dựng ở thôn Đa Cai, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, thờ Trần Nguyên Hãn-Tả tướng quốc phò Lê Lợi diệt giặc Minh giải phóng đất nước cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV.

Đền được cấu trúc theo kiểu chữ đinh (J), xung quanh có tường bao bọc tạo thành khuân viên vuông vắn. Trong đền có một số cổ vật như 2 Hoành Phi, 4 câu đối, 2 sập thờ, một ngai thờ, 1 án thư, 2 con Hạc gỗ, 2 cây đèn gỗ, một mâm gỗ, một hòm sắt (có 13 đạo sắc phong từ đời Lê Vĩnh Thịnh (1705-1719) đến đời Nguyễn Bảo Đại (1926-1945) và một thần tích. Liên quan tới di tích, tương truyền còn có hai cổ vật là một thanh gươm và một phiến đá mài gươm.

Tháp Bình Sơn được xây dựng trước Chùa Vĩnh Khánh thôn Bình Sơn, xã Tam Sơn, huyện Lập Thạch. Tháp được xây dựng vào thế kỷ XIII, đầu trần (1225-1400). Tương truyền khi mới xây tháp có 15 tầng, do thời gian huỷ hoại nay còn lại 11 tầng và phần bệ tháp với chiều cao là 15m.

Tháp Bình Sơn vừa có giá trị nghiên cứu về kỹ thuật xây dựng vừa có giá trị về mặt mỹ thuật.

Về kỹ thuật xây độc đáo, mặt bằng tháp hình vuông, đáy bệ tháp có cạnh 4,45m, cao 1,62m, tầng dưới cùng có cạnh 3,3m, cao 2,72m. Các tầng tháp đều xây đòn võng (hơi võng ở giữa), càng lên cao càng thu vào và mỗi tầng có kích thước khác nhau. Tầng trên cùng có cạnh 1,5m, 4 mặt có cuốn cửa tò vò nhỏ dần theo tầng tháp. Tháp được xây dựng nhiều loại gạch khác nhau.

Về mỹ thuật: Lớp gạch ốp ngoài có hoa văn khác nhau ở từng mặt, từng tầng tháp. Kỹ thuật nung gạch vẫn tươi màu không bị rêu phong. Đây cây tháp bằng đất nung được đánh giá là đẹp nhất Đông Nam Á.

Danh sơn Tam Đảo đứng giữa vùng trung du dài hơn 50 km chạy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, từ huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) đến huyện Sóc Sơn Hà Nội, là danh giới tự nhiên giữa tỉnh Vĩnh Phúc và Tuyên Quang.

Dãy Tam Đảo có trên 10 đỉnh cao trên 1.400m, riêng đỉnh núi giữa (giữa 3 tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc) cao 1529m đến cuối dãy ở đèo Nhe cao 600m và đến Dõm còn 300m rồi hoà vào đồng bằng Sóc Sơn. Gọi là Tam Đảo vì ở giữa dãy có 3 ngọn núi cao vút trông như 3 hòn đảo nổi bồng bềnh giữa biển mây. Ba ngọn đó thứ tự từ Tây Bắc xuống Đông Nam là Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị. Đỉnh Phù Nghĩa có nghĩa là giúp việc nghĩa, cao 1.400m. Tên này tương tuyền do Quận Hẻo Nguyễn Danh Phương đặt.

– Đỉnh thiên thị có nghĩa là chợ trời cao 1.375m, gọi vậy vì trên đỉnh có khoảng đất bằng phẳng, rải rác có những tảng đá cao thấp, nhấp nhô trông như người trời xuống họp chợ.

Bao trùm lên danh sơn Tam Đảo là rừng nguyên sinh nhiệt đới được Chính Phủ quy hoạch thành vườn quốc gia Tam Đảo. Nằm trong vườn quốc gia Tam Đảo còn có nhiều danh thắng và di tích lịch sử văn hoá có giá trị, tiêu biểu là danh thắng Tây Thiên và khu nghỉ mát Tam Đảo.

Ngoài những di sản văn hoá vật thể, Vĩnh Phúc còn là vùng văn hoá dân gian đặc sắc trên nhiều loại hình như: Văn học dân gian, mỹ thuật dân gian, âm nhạc dân gian, trò diễn hội làng. Truyền thuyết dân gian và truyền thuyết lịch sử ở Vĩnh Phúc luôn gắn liền với cội nguồn của dân tộc, được phổ biến và lưu truyền ở nhiều địa phương trong tỉnh như truyền thuyết về người con gái Tam Đảo, truyền thuyết Đinh Thiên Tích, truyền thuyết về tướng lĩnh của Hai Bà Trưng… các truyền thuyết trên đều nói về những tấm gương giúp dân đánh giặc cứu nước ở Vĩnh Phúc. Tục ngữ ca dao dân ca cũng là thể loại được phổ biến trong cộng đồng dân cư của các dân tộc ở Vĩnh Phúc. Nội dung của tục ngữ, ca dao ở Vĩnh Phúc đều nói lên cái hay, vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương và phản ánh đời sống lao động của người dân. Về dân ca ở Vĩnh Phúc vừa mang âm điệu của vùng đồng bằng, vừa phảng phất âm điệu của các làn điệu dân ca các dân tộc miền núi. Tiêu biểu là trống quân Đức Bác, hát ví giao duyên, hát soọng cô của đồng bào dân tộc Sán Dìu.

Trò chơi hội làng là một hoạt động văn hoá tiêu biểu ở nhiều địa phương trong tỉnh còn lưu giữ đến ngày nay như trò Chọi trâu xã Bạch Lưu (Lập Thạch) vào ngày 17 tháng giêng; trò Kéo co ở Tích Sơn (Vĩnh Yên); trò Bơi chải ở Bạch Hạc; Cướp Phết ở Bàn Giản (Lập Thạch)… ngoài ra còn có trò đua tài khéo léo như Thi Nấu cơm ở Sơn Đông (Lập Thạch), Thượng Trưng (Vĩnh Tường), Tích Sơn (Vĩnh Yên).

Nói đến văn hoá dân gian Vĩnh Phúc còn phải kể đến văn hoá ẩm thực. Đó là những món ăn, cách uống mang nét đặc trưng của miền quê này, gắn liền với cuộc sống của từng vùng đã có từ bao đời nay như: mắm tép ở Đức Bác, cá thính ở Đức Bác, Cao Phong; cá gỏi của người Cao Lan; bánh nẳng ở Đôn Nhân, Nhân Đạo; cháo se, bánh hòn ở Hương Canh; nem chua ở Vĩnh Yên, đa nem ở Tiến Thịnh, bún bánh ở Vĩnh Mỗ ….

Địa linh Vĩnh Phúc đã sản sinh ra nhiều trang tuấn kiệt, bởi đó là đất sinh tụ của những anh hùng.

Mở đầu thời kỳ quốc gia Đại Việt, Vĩnh Phúc có ông Nguyễn Văn Nhượng là một danh tướng nay còn đền thờ ở quê hương ông xã Tứ Trưng, huyện Vĩnh Tường. Văn thần có ông Phạm Công Bình người xã Đồng Văn huyện Yên Lạc, thi nho học đỗ đầu hàng Đệ nhất giáp, khoa giáp thìn năm 1124 đời Lý Nhân Tông, ông có công 2 lần đánh thắng quân Chân Lạp, bảo vệ toàn vẹn vùng biên giới phía Nam tổ quốc, tên ông được ghi sáng ngời trong quốc sử.

Thời chiến thì võ công oanh liệt, tiêu biểu là Trần Nguyên Hãn xã Sơn Đông (Lập Thạch) trở thành tả tướng quốc “tên ông liền với tên vua đủ thấy ông được vua coi trọng như thế nào”.

Thời bình thì văn học huy hoàng, những con em người Vĩnh Phúc xuất thân vào chốn trường nho thì đỗ cao, làm quan giỏi, tên tuổi được chép trên bia đá, bảng vàng, trở về quê được suy tôn (đưa lên bậc cao quý), được tôn thờ, tên tuổi ghi lên bia đá, còn sáng mãi hai chữ Thân-Danh.

Tỉnh Vĩnh Phúc chỉ tính từ năm 1124 (Triều Lý) đến năm 1889 (Triều Nguyễn) đã thành đạt 98 danh Nho (nổi tiếng trong làng Nho học), tức là các bậc thi đỗ vào hàng Đại Khoa, đạt danh hiệu từ Phó bảng đến Trạng Nguyên, được phân theo các huyện hiện thời như sau:

– Huyện Vĩnh Tường có 23 người đỗ– Huyện Lập Thạch có 22 người đỗ– Huyện Yên Lạc có 22 người đỗ– Huyện Mê Linh có 15 người đỗ– Huyện Bình Xuyên có 12 người đỗ– Huyện Tam Dương có 1 người đỗ– Thành phố Vĩnh Yên có 3 người đỗ

Tỉnh Vĩnh Phúc khởi đầu khoa bảng là ông Phạm Công Bình là người khai khoa hàng danh Nho của tỉnh, đến triều Nguyễn được truy phong là Trạng Nguyên, kết thúc là ông Phạm Duy Bách (1124-1889), 765 năm liên tục tỉnh có người đăng khoa, một thời phát triển huy hoàng của văn hiến Vĩnh Phúc. Tiêu biểu cho hàng khoa bảng ở Vĩnh Phúc có Trạng Nguyên Đào Sư Tích triều Trần thi đỗ danh sách thứ nhất cả 3 kỳ thi Hương-Hội-Đình, nên đạt danh hiệu Tam Nguyên. Hoàng giáp Phí Văn Thuật triều Lê Trung Hưng, tuy không đạt nhiều danh hiệu hàng Tam khôi nhưng thi đỗ danh sách thứ nhất 3 kỳ thi Hương-Hội-Đình, khi vào ứng chế bài thơ của ông được bình vào bậc nhất, nên được gọi là tứ nguyên. Hoàng giáp Nguyễn Khắc Cần triều Nguyễn hai kỳ thi Hội-Đình đều đỗ danh sách thứ nhất nên đạt danh hiệu Song Nguyên. Đứng vào hàng Tam Khôi Vĩnh Phúc có 3 người.

– Ông Đào Sư Tích (Trạng Nguyên)– Ông Phạm Du (Bảng nhãn)– Ông Lê Ninh (Thám Hoa)

Trên đường xuất thân có người đạt được tiêu chí là bậc danh thần (bề tôi có tên tuổi rực rỡ) như Đỗ Nhuận, Nguyễn Duy Thì, những bậc danh tiết (tên tuổi rực rỡ vì gương hy sinh tiết liệt) như Nguyễn Thiệu Tri, Lê Đức Toản, Nguyễn Duy Tường, Nguyễn Khắc Cần, tên tuổi được chép trong sử thực lục, được lập đền miếu riêng tôn thờ, các triều đại tặng sắc phong, ban ân điển.

Vĩnh Phúc là một vùng đất cổ, thời dựng nước người Việt cổ đã sớm đến định cư sinh sống ở đây và trở thành trung tâm của nước Văn Lang. Qua các di tích khảo cổ ở Lũng Hoà (Vĩnh Tường), Đồng Đậu (Yên Lạc), Thành Dền (Mê Linh) và nhiều địa phương khác trong tỉnh đã khẳng định từ 3.500 năm về trước, người Việt cổ ở Vĩnh Phúc đã biết trồng lúa nước.

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, trước những biến động lớn như chiến tranh, thời tiết khắc nghiệt, chính sách đồng hoá của phong kiến phương bắc, chính sách phong hầu, kiến ấp của các triều đại phong kiến và chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp… các luồng di cư đến Vĩnh Phúc ngày càng đông.

– Năm 1997 khi tái lập tỉnh Vĩnh Phúc toàn tỉnh có 1.103.810 người trong đó người Kinh chiếm đa số, ngoài dân tộc thiểu số chỉ chiếm 2,7% được phân bố:

+ Thị xã Vĩnh Yên: 35.592 người+ Lập Thạch: 227.960 người+ Tam Dương + Bình Xuyên: 254.570 người+ Vĩnh Tường: 190.459 người+ Yên Lạc: 146.645 người+ Mê Linh: 248.584 người– Năm 2005 toàn tỉnh Vĩnh Phúc có 1.169.067 người được phân bố:+ Vĩnh Yên: 81.537 người+ Phúc Yên: 86.650 người+ Lập Thạch: 211.776 người+ Tam Dương: 94.305 người+ Tam Đảo: 67.591 người+ Bình Xuyên: 105.755 người+ Mê Linh: 182.036 người+ Yên Lạc: 145.890 người+ Vĩnh Tường: 193.257 người

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc Vĩnh Phúc đã nêu cao ý chí quật cường, anh dũng đấu tranh với kẻ thù để bảo vệ quê hương đất nước.

Vào buổi sơ khai lịch sử dân tộc, khi giặc Ân sang cướp nước Văn Lang, nhân dân vùng Vĩnh Phúc đã đứng lên giúp Vua đánh giặc cứu nước. Đến thời An Dương Vương nhiều người Vĩnh Phúc đã giúp nhà Vua chống giặc ngoại xâm bảo vệ nước Âu Lạc.

Trong một nghìn năm Bắc thuộc, nhân dân Vĩnh Phúc liên tục đứng lên chống lại ách áp bức, bóc lột và âm mưu đồng hoá của kẻ thù, giữ vững bản sắc dân tộc và độc lập tự do của tổ quốc. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng những năm đầu Công nguyên. Thế kỷ VI nhân dân Vĩnh Phúc tham gia ủng hộ nghĩa quân của Lý Bí chống quân Lương ở vùng hồ Điển Triệt (Tứ Yên – Lập Thạch). Thế kỷ X giúp tướng quân Nguyễn Khoan xây dựng thành Gia Loan chống giặc. Thế kỷ XIII giúp vua tôi nhà Trần làm nên chiến thắng Bình Lệ Nguyên đánh giặc Nguyên Mông thắng lợi. Thế kỷ XV có danh tướng Trần Nguyên Hãn giúp Lê Lợi đánh thắng giặc Minh, được phong tới chức tả tướng quốc. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, trên đất Vĩnh Phúc từ năm 1885 đến 1893, các thổ hào trong tỉnh gồm các ông Đề, ông Đốc, ông Lãnh… (những chức quan thời Nguyễn) đã dấy binh chống lại xâm lược của thực dân Pháp, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Hoạt động ở vùng Bạch Hạc, Vĩnh Tường, Tam Dương, Lập Thạch có nghĩa quân của Đốc Khoát, Đốc Giang, Đốc Huỳnh, Đốc Thành. Hoạt động ở cùng Kim Anh, Đa Phúc, Yên Lãng có Lãnh Giang, Đốc Két, Tuần Bốn…

Những năm đầu thế kỷ XX nhân dân vùng Vĩnh Phúc lại đứng lên ủng hộ nghĩa quân Đề Thám chống Pháp ở vùng núi Tam Đảo. Tiếp theo là ủng hộ cuộc khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên do Đội Cấn cầm đầu năm 1917, khi nghĩa quân về hoạt động trên đất Vĩnh Phúc. Năm 1930 Nguyễn Thái Học quê ở Vĩnh Tường Vĩnh Phúc là lãnh tụ Việt Nam quốc dân đảng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái, đã để lại tiếng vang và bài học về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

Những truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Vĩnh Phúc qua hàng nghìn năm lịch sử, chẳng những tô thắm thêm truyền thống của quê hương mà còn là mảnh đất tốt để khi có hạt giống cách mạng của Đảng gieo mầm sẽ nhanh chóng phát triển.

Lịch sử hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giai đoạn này có thể chia thành 2 thời kỳ: Thời kỳ 1990 -1995: Bắt đầu đổi mới chuyển sang hoạt động theo cơ chế của một Ngân hàng thương mại; Thời kỳ 1995 -2012: BIDV mở rộng hoạt động, xây dựng tích lũy nội lực, hội nhập quốc tế.

Ngày 14/11/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 401/CT về việc thành lập Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) trên cơ sở đổi tên Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam. Với lần đổi tên thứ ba này, BIDV đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong chức năng hoạt động thực tế, trong vai trò đối với nền kinh tế mà BIDV đảm nhiệm: chuyển từ giai đoạn đầu tư chỉ đơn giản là “xây dựng” sang một trạng thái chất lượng mới - đầu tư để “tăng trưởng, để thúc đẩy “phát triển”. BIDV không đơn thuần cung ứng một loại dịch vụ phục vụ hoạt động xây dựng mà đã chuyển sang đóng vai trò “động lực thúc đẩy phát triển”.

Trong thời kỳ này, BIDV đã chuyển sang phương thức hoạt động mới là “đi vay để cho vay” nên trọng tâm là huy động vốn trong và ngoài nước để cho vay các dự án sản xuất kinh doanh theo kế hoạch nhà nước, cứu sản xuất khỏi tình trạng thiếu vốn khi Nhà nước đã chấm dứt cấp phát không hoàn lại cho các doanh nghiệp.

Thành quả đầu tiên mà BIDV đạt được từ sau khi có hai pháp lệnh về ngân hàng và Điều lệ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển là việc hoàn thiện hệ thống tổ chức trong phạm vi cả nước. Đó là cơ sở để BIDV phát huy sức mạnh, tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động nghiệp vụ của mình và đã đạt được những kết quả nổi bật.

Mở rộng và đa dạng hóa nguồn vốn: BIDV đã có nhiều sáng tạo trong việc huy động nguồn vốn hoạt động cho ngân hàng bằng cách đưa ra những sản phẩm huy động vốn lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường Việt Nam giai đoạn đó như: huy động vốn dân cư bằng các sản phẩm Huy động kỳ phiếu VNĐ và USD; Huy động kỳ phiếu bảo đảm giá trị theo giá vàng; Phát hành trái phiếu;... BIDV cũng có nhiều sáng tạo hiệu quả trong việc huy động các nguồn vốn nước ngoài bằng các khoản vay từ các ngân hàng và công ty tài chính quốc tế dưới nhiều hình thức: Vay tài chính, vay thông qua các hiệp định, tài trợ xuất, nhập khẩu, hạn mức tài trợ tín dụng thư... Với chính sách tạo vốn hiệu quả, từ nguồn vốn chỉ có 300 tỷ đồng năm 1990, BIDV đã huy động được nguồn vốn lên tới 25.000 tỷ đồng, đủ đáp ứng cho dư nợ đầu tư phát triển. BIDV cũng huy động được nguồn vốn ngoại tệ lên tới gần 500 triệu USD, đáp ứng nhu cầu nhập khẩu thiết bị, vật liệu từ các kênh vay vốn...

Tiếp tục đảm đương nhiệm vụ cấp phát cho các công trình, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản do Nhà nước chỉ định.

Thực hiện một loạt các cơ chế mở rộng tín dụng, đáp ứng các nhiệm vụ bao gồm: Cho vay các dự án kế hoạch Nhà nước, Cho vay dài hạn theo kế hoạch nhà nước với lãi suất ưu đãi, Cho vay xây lắp, cho vay ngoài quốc doanh;...

Phát triển Công nghệ thông tin: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam bắt đầu tiếp cận với Công nghệ thông tin, từng bước ứng dụng vào trong hoạt động của Ngân hàng. BIDV đã thành lập Phòng Công nghệ thông tin với cơ sở vật chất công nghệ thời kỳ đầu này có 8 máy tính với hai máy tại Hội sở chính, 2 máy tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, 4 máy tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.

Thiết lập quan hệ quốc tế: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam bắt đầu thiết lập các quan hệ hợp tác quốc tế, mở đầu cho việc huy động các nguồn vốn ngoại tệ sau này.

Thành lập Ngân hàng Liên doanh VID-Public với Malaysia: Một trong những sự kiện đánh dấu bước đột phá trong hoạt động kinh doanh đối ngoại trong giai đoạn này là việc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã ký hợp đồng với Ngân hàng Public Bank Berhard Malaysia để thành lập Ngân hàng liên doanh VID-Public, trụ sở chính đặt tại Hà Nội. Ngân hàng được thành lập với số vốn điều lệ là 10.000.000 USD, tỷ lệ góp vốn là 50/50. VID - Public Bank được đánh giá là một trong những ngân hàng liên doanh với nước ngoài hoạt động hiệu quả nhất ở Việt Nam.

Từng bước mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao khả năng tiếp thị với các ngân hàng thế giới: BIDV đã tạo được hình ảnh và uy tín đối với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, ký kết được các hiệp định tài trợ xuất, nhập khẩu hạn mức tín dụng, bảo lãnh cho các doanh nghiệp để vay vốn nước ngoài. Sự kiện đầu tiên đáng ghi nhớ trong hoạt động đối ngoại của BIDV là năm 1992, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được giao cho vay ủy thác khoản ODA đầu tiên của Chính phủ Italia, trị giá 58,5 triệu Lia. Từ năm 1994 trở đi, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam bắt đầu được nhận ủy thác cho vay lại trong nước đối với nhiều nguồn vốn khác của các nước Đức, Pháp, Hà Lan, Thái Lan...

Xây dựng thương hiệu và biểu tượng thương hiệu Ngân hàng: Cùng với việc thiết lập các hoạt động quan hệ đối ngoại, thương hiệu và biểu tượng thương hiệu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng đã ra đời trong giai đoạn này. Ngày 25-9-1991, Logo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV lần đầu tiên chính thức được công bố ở Malaixia trong dịp ký kết thành lập Ngân hàng liên doanh Vid-Publich Bank. Biểu tượng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam bao gồm những chữ cái đầu tiên tên tiếng Anh của ngân hàng: BIDV. Ba chữ IDB được bố trí thành một khối chặt chẽ lồng ghép nhau với chữ D màu xanh - biểu tượng của tương lai, hy vọng và phát triển. Chữ I màu đỏ - màu cờ Tổ quốc Việt Nam. Chữ B được lồng ghép từ chữ I và chữ D có hai màu xanh đỏ. Chữ V có màu đỏ của cờ Tổ quốc. Kể từ khi ra đời, biểu tượng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là niềm động viên, niềm tự hào của cán bộ, công nhân viên Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, là niềm tin yêu, sự quen thuộc đối với người dân, đối với khách hàng trong nước và cả bạn bè trên thế giới.

Đến cuối năm 1994, trước khi chuyển đổi cơ chế hoạt động, mặc dù có thời điểm tưởng như không còn tồn tại, BIDV đã vươn lên mạnh mẽ, xây dựng được một hệ thống vững chắc để ngày càng phát triển. Tổng số vốn huy động của BIDV đã có mức tăng trưởng vượt bậc, đạt uy động vốn vượt bậc, đạt 1.743 tỉ đồng, tăng 13,2 lần so với năm 1990, dư nợ 1.543 tỷ đồng. Toàn hệ thống có 52 chi nhánh tại khắp các tỉnh thành với 3.400 cán bộ.

Ngày 8/11/1994, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định 654/QĐ-TTg v/v chuyển giao toàn bộ nhiệm vụ cấp phát vốn đầu tư phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam sang Tổng cục Đầu tư và Phát triển thuộc Bộ Tài chính.

Ngày 18/11/1994, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã kí quyết định số 293/QĐ-NH9 về việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Theo đó, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được phép kinh doanh đa năng, tổng hợp như một ngân hàng thương mại, phục vụ chủ yếu cho đầu tư phát triển đất nước. BIDV chính thức bắt đầu hoạt động theo mô hình ngân hàng thương mại. Kể từ đây, BIDV bắt đầu chuyển đổi hoạt động và vươn lên mạnh mẽ, trở thành một ngân hàng chủ lực trong đầu tư phát triển trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. BIDV chuyển sang giai đoạn mở rộng hoạt động kinh doanh đa năng, đa lĩnh vực, khẳng định thương hiệu và vị thế ngày càng vững chắc trên thị trường tài chính, ngân hàng.

Trong giai đoạn này, nhất là từ năm 1996, BIDV đã từng bước xoá thế “độc canh tín dụng” trong hoạt động ngân hàng, tập trung huy động vốn, phát triển mạnh các loại hình dịch vụ, tăng dần tỷ trọng thu từ dịch vụ và kinh doanh tiền tệ, bắt đầu phát triển mạnh mẽ các hoạt động ngân hàng bán lẻ. Đây là thời kỳ BIDV đã triển khai rất nhiều quyết sách sáng tạo, riêng có trong hệ thống các tổ chức tín dụng thời điểm đó. BIDV đã áp dụng các chính sách như bài toán lãi suất hòa đồng, bài toán tạo nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển; chính sách cây sản phẩm phục vụ trọn gói đầu tư phát triển; Hợp tác toàn diện với các Tổng công ty; chương trình tín dụng và dịch vụ theo các chương trình kinh tế lớn của đất nước như: đầu tư vùng kinh tế trọng điểm đầu tư vào các khu công nghiệp, chuyển đổi cơ cấu, phát triển kinh tế vùng miền như Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, miền Trung...

Công tác nguồn vốn: Trong giai đoạn 1995 - 2012, BIDV đã có bước tăng trưởng huy động vốn vượt bậc. Năm 1995, số dư huy động vốn đạt 3.605 tỉ đồng thì đến năm 2012, huy động vốn của BIDV đạt 285,6 ngàn tỷ đồng, gấp gần 80 lần so với thời điểm năm 1995.

Hoạt động tín dụng: BIDV đã thực hiện chính sách kinh doanh tổng hợp, đa năng, tích cực và linh hoạt, lấy hiệu quả sản xuất, kinh doanh của khách hàng làm mục tiêu, góp phần phát triển đất nước. Ngân hàng đã tập trung vốn cho các dự án trọng điểm, hiệu quả cao theo các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời mở rộng tín dụng đối với các thành phần kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng. Thay đổi quan trọng nhất về tín dụng là Ngân hàng từ chỗ chủ yếu cho vay các dự án theo kế hoạch của Nhà nước hằng năm đã chuyển sang tự tìm kiếm các dự án theo các chương trình, mục tiêu kinh tế trọng điểm của Đảng và Nhà nước. Doanh số cho vay đầu tư và phát triển của BIDV liên tục tăng lên, năm sau gấp đôi năm trước. Bên cạnh đó BIDV thực hiện các chính sách kích cầu đầu tư của Chính phủ trong giai đoạn nền kinh tế suy giảm. Năm 1995, dư nợ tín dụng của BIDV là khoảng 3.700 tỷ đồng. Đến đầu năm 2012, Dư nợ tín dụng trước DPRR đạt 293,9 ngàn tỷ đồng.

Cùng với tăng trưởng về quy mô, nền khách hàng doanh nghiệp ngày càng được mở rộng. Giai đoạn này, tổng số lượng khách hàng doanh nghiệp tại BIDV là 78.420 khách hàng. Trong đó, số khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 55%. BIDV đã có quan hệ với 86 tập đoàn, tổng công ty, chiếm trên 80% tổng số văn phòng Tập đoàn, Tổng công ty và các đơn vị thành viên của cả nước.

Đây là thời kỳ BIDV thực hiện mở rộng kinh doanh đa năng, đa lĩnh vực, thực hiện đầu tư, mở rộng hoạt động trong rất nhiều ngành nghề lĩnh vực với nhiều kết quả nổi bật.

Cùng với việc phát triển các hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại, BIDV tiến hành các hoạt động đầu tư thông qua việc thành lập các công ty con, công ty liên doanh qua đó hình thành mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng với các trụ cột là ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư tài chính.

BIDV là ngân hàng đi tiên phong trong việc đầu tư mở rộng hoạt động trên thị trường quốc tế. BIDV đã tiến hành đầu tư ra nước ngoài ở các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán với việc lần lượt thành lập các hiện diện, chi nhánh/góp vốn thành lập các đơn vị liên doanh tại các thị trường Lào, Campuchia, Myanmar, tiến dần đến các thị trường châu Âu bao gồm Liên bang Nga, Cộng hòa Séc. Trong quá trình đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế, BIDV đã thực hiện tốt vai trò là cầu nối đưa dòng vốn đầu tư quốc tế vào Việt Nam, mở đường và hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước đầu tư ra nước ngoài, góp phần bồi đắp quan hệ kinh tế, hữu nghị giữa Việt Nam với các nước.

BIDV đã thực hiện đầu tư góp vốn thành lập hàng loạt các công ty liên doanh, đơn vị thành viên trong nhiều ngành nghề lĩnh vực khác nhau, trong đó, có nhiều lĩnh vực BIDV đóng vai trò tiên phong trong việc mở ra những cơ hội hợp tác đầu tư toàn diện với các đối tác trong và ngoài nước. Việc mở rộng các lĩnh vực đầu tư, hợp tác trong nước và quốc tế đã nâng cao vị thế của BIDV trên thị trường trong nước và quốc tế.

Năm 1998, BIDV thành lập công ty cho thuê tài chính BLC, thêm một kênh hỗ trợ vốn trung dài hạn.

Năm 1999, BIDV lần lượt thành lập các đơn vị liên doanh/công ty thành viên bao gồm: Công ty liên doanh bảo hiểm Việt - Úc QBE (góp vốn liên doanh với Công ty Bảo hiểm Úc QBE); BIDV thành lập công ty chứng khoán BSC - là công ty chứng khoán đầu tiên của ngành ngân hàng tham gia kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán, là một trong hai công ty chứng khoán đầu tiên của Việt Nam.

Ngày 21/6/1999, BIDV góp vốn với Ngân hàng Ngoại thương Lào (BCEL) thành lập Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt, biểu tượng của tình hữu nghị sâu sắc giữa hai đất nước Việt Nam – Lào; là cầu nối quan trọng trong hợp tác kinh tế, đầu tư, thương mại giữa hai nước Việt Nam – Lào. Đến nay, Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt đã phát triển lớn mạnh, là Ngân hàng có quy mô lớn thứ 3 tại thị trường Lào.

Năm 2001, Công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BAMC) được thành lập.

Năm 2004, BIDV góp vốn cùng các ngân hàng TMNN và Ngân hàng cổ phần cùng Công ty Điện toán và Truyền số liệu (trực thuộc Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam - VNPT) thành lập Công ty cổ phần Chuyển mạch tài chính quốc gia Việt Nam (Banknet).

Ngày 06 tháng 7, năm 2005, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã trở thành ngân hàng đầu tiên của Việt Nam được Cơ quan đăng ký sáng chế và thương hiệu của Mỹ cấp giấy chứng nhận đăng ký thương hiệu trên lãnh thổ Mỹ.

Năm 2005, một loạt công ty liên doanh và công ty thành viên của BIDV được thành lập: Công ty liên doanh Tháp BIDV; Công ty liên doanh quản lý đầu tư Việt Nam – Partner (BVIM); BIDV thành lập công ty Bảo hiểm BIC (trên cơ sở mua lại toàn bộ phần vốn nước ngoài tại công ty liên doanh Bảo hiểm Việt –Úc QBE - trở thành ngân hàng thương mại Việt Nam đầu tiên thành lập công ty hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, là doanh nghiệp Việt Nam đầu tiên mua lại phần vốn góp của công ty nước ngoài trong liên doanh. Đặc biệt, BIC còn mở rộng hoạt động sang cả ba nước Đông Dương thông qua việc góp vốn liên doanh vào Công ty Bảo hiểm Lào - Việt (LVI) và Công ty Bảo hiểm Campuchia - Việt Nam (CVI). BIC là Công ty bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam đầu tiên có mạng lưới hoạt động trên địa bàn này.

Năm 2006: Thành lập Ngân hàng liên doanh Việt- Nga trên cơ sở liên doanh với Ngân hàng Ngoại thương Nga VTB.

Năm 2007: BIDV góp vốn cùng Tổng công ty Hàng Không Việt Nam thành lập Công ty cổ phần cho thuê máy bay Việt Nam VALC; Thành lập Công ty cổ phần Phát triển đường cao tốc BIDV (BEDC).

Năm 2008: BIDV thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn quốc tế tại Hồng Kông (BIDVI).

Năm 2009: BIDV khai trương các hiện diện thương mại tại Campuchia, bao gồm: Văn phòng đại diện, Công ty Đầu tư và Phát triển Campuchia (IDCC), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Campuchia (BIDC).

Năm 2010: BIDV khai trương Văn phòng đại diện Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam tại Myanmar; Thành lập công ty chứng khoán Campuchia CVS; Khai trương Công ty cổ phần Tài chính IDCC châu Âu tại Cộng hòa Séc. Thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn Đầu tư và Phát triển quốc tế (II DC).

Đến cuối năm 2012, BIDV đã có 5 công ty trực thuộc gồm: Tổng công ty Bảo hiểm BIDV (BIC), Công ty Cho thuê tài chính (BLC) được hợp nhất từ Công ty Cho thuê tài chính BIDV và Công ty Cho thuê tài chính II BIDV, Công ty Chứng khoán BIDV (BSC), Công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản BIDV (BAMC) và Công ty trách nhiệm hữu hạn quốc tế BIDV tại Hồng Kông (BIDVI).

Minh bạch thông tin: Năm 2006, BIDV là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam thuê tổ chức định hạng hàng đầu thế giới Moody’s thực hiện định hạng tín nhiệm cho BIDV và đạt mức trần quốc gia. BIDV cũng là Ngân hàng chủ động thực hiện kiểm toán liên tục từ 1996 do công ty kiểm toán hàng đầu thế giới Earn & Young thực hiện.

Phát triển công nghệ thông tin: BIDV đã xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, được ứng dụng trên hầu hết trong hoạt động kinh doanh, quản lý với tỷ lệ trên 95% nghiệp vụ ngân hàng và tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ, tiện ích. BIDV đã xây dựng được cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin có khả năng sẵn sàng cao đáp ứng yêu cầu ứng dụng các giải pháp ngân hàng hiện đại: BIDV là ngân hàng đầu tiên có Trung tâm Công nghệ thông tin dự phòng thảm họa đạt tiêu chuẩn khu vực. Trong 4 năm liền (2007 - 2010) BIDV được Hội tin học Việt Nam đánh giá là Ngân hàng hàng đầu về mức độ sẵn sàng cho ứng dụng Công nghệ thông tin trong khối Ngân hàng thương mại (Vietnam ICT Index), là ngân hàng thương mại duy nhất trong khối các ngân hàng thương mại Việt Nam liên tục trong 4 năm giữ vị trí hàng đầu.

Chuyển hướng kinh doanh tập trung phát triển hoạt động bán lẻ: Song song với chuyển đổi mô hình tổ chức, BIDV đã chủ động chuyển đổi mô hình kinh doanh và mô hình tăng trưởng từ chủ yếu dựa trên hoạt động tài trợ các dự án lớn, khách hàng lớn (bán buôn) sang việc phát triển các sản phẩm ngân hàng bán lẻ hiện đại phục vụ cho đối tượng khách hàng cá nhân trên cơ sở khai thác công nghệ thông tin và trình độ quản trị ngân hàng cập nhật với các ngân hàng của khu vực và quốc tế.

Phát triển mạng lưới kênh phân phối truyền thống và kênh phân phối hiện đại: hệ thống ATM của BIDV đạt gần 1.300 máy phân bổ khắp các tỉnh thành trong cả nước, và 1.692 POS, số lượng thẻ ATM phát hành đã tăng lên gần 3 triệu thẻ, với tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm 45%, đứng Top 5 về thị phần thẻ ở Việt Nam.

Thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt: Trong giai đoạn này, BIDV là ngân hàng duy nhất được Chính phủ Việt Nam tin tưởng giao thực hiện những nhiệm vụ kinh tế chính trị đặc biệt. Thực hiện chủ trương của Chính phủ về đẩy mạnh và phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác toàn diện về kinh tế, thương mại, hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và Lào, BIDV đã hợp tác với Ngân hàng Đại chúng Ngoại thương Lào (BCEL) thành lập Ngân hàng liên doanh Lào – Việt, trở thành cầu nối quan trọng trong hợp tác kinh tế, đầu tư, thương mại giữa hai nước Việt Nam – Lào; BIDV đã thực hiện thành công việc xử lý thu hồi tài sản thế chấp, cầm cố, thu hồi nợ vay của Ngân hàng TMCP Nam Đô, giảm bớt tổn thất cho nhân dân, Nhà nước, khẳng định được vị thế, sự tín nhiệm của Nhà nước, nhân dân dành cho BIDV. BIDV cũng hoàn thành tốt nhiệm được Chính phủ giao trong việc hỗ trợ khắc phục hậu quả do thiên tai lũ lụt, cho vay thu mua tạm trữ lương thực, hỗ trợ ngành cà phê...

Thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng, chuẩn bị cho bước chuyển đổi sang mô hình Ngân hàng Thương mại cổ phần: Năm 2011, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính Phủ, BIDV đã khẩn trương tiến hành các thủ tục chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng, (IPO), Ngày 28-12-2011, BIDV đã tiến hành cổ phần hóa thông qua việc bán đấu giá cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO). Kết quả: các nhà đầu tư đã đặt mua 1.66 lần so với lượng cổ phiếu lần đầu bán ra, mức giá thành công bình quân là 18.583 đồng/cổ phần với tổng khối lượng cổ phần là 84.754.146 cổ phần. Thu về cho Nhà nước số tiền 1.575 tỷ đồng và được đánh giá là phiên đấu giá thành công nhất trong điều kiện thị trường xấu nhất, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán trong tương lai. Sự kiện IPO BIDV được bình chọn là 1 trong 10 sự kiện tiêu biểu của Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2011.

Công tác phát triển thương hiệu: BIDV thực hiện tái định vị thương hiệu gắn với hoạt động kinh doanh. Hoàn thiện những giá trị cốt lõi, các yếu tố nhận diện thương hiệu để đảm bảo tính chuyên nghiệp, đồng nhất trong toàn hệ thống. Năm 2006, BIDV công bố Slogan là “Chia sẻ cơ hội, hợp tác thành công” (Share opportunities, share success), thể hiện cam kết của BIDV sẵn sàng chia sẻ, đồng hành cùng với các khách hàng, hợp tác mang lại lợi ích cho cả khách hàng và ngân hàng. Năm 2009, BIDV đã thực hiện hiệu chỉnh Logo Ngân hàng và ban hành bộ cẩm nang nhận diện thương hiệu của BIDV với trên 70 hạng mục ứng dụng sử dụng trong mọi hoạt động kinh doanh, truyền thông quảng bá thương hiệu. Màu sắc nhận biết thương hiệu của Ngân hàng là ba màu: Xanh, Đỏ và Trắng. Trong quá trình mở rộng thương hiệu trong các lĩnh vực kinh doanh và phát triển thương hiệu ra thị trường nước ngoài, các đơn vị thành viên, liên doanh xây dựng biểu tượng thương hiệu riêng đều có các yếu tố trong biểu tượng thương hiệu BIDV.

Đến năm 2012, trước khi chuyển đổi mô hình hoạt động sang NHTMCP, BIDV đã xây dựng được một quy mô tầm vóc lớn mạnh: BIDV có tổng tài sản đạt gần 406 ngàn tỷ đồng, huy động vốn đạt 285,6 ngàn tỷ đồng, dư nợ tín dụng trước DPRR đạt 293,9 ngàn tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 4.220 tỷ đồng. BIDV có hệ thống điểm giao dịch rộng khắp với 118 chi nhánh với 525 điểm giao dịch, số lượng cán bộ toàn hệ thống là gần 18.000 cán bộ có trình độ, được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp.

Nhìn vào quá trình phát triển của BIDV, trong thời kỳ hoạt động với tên gọi Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, với sự chuyển đổi và thực hiện mô hình kinh doanh đa năng, tổng hợp theo mô hình ngân hàng thương mại hiện đại với xu hướng mở rộng các hoạt động ngân hàng bán lẻ đã có bước phát triển vượt bậc về tầm vóc, cả về “lượng” và “chất”, BIDV đã vươn lên thành một ngân hàng đẳng cấp trong nước và quốc tế, có đủ năng lực cạnh tranh để tham gia vào sân chơi toàn cầu. BIDV cũng xây dựng và tích lũy được thế và lực quan trọng để chuẩn bị bước sang một giai đoạn hoạt động theo mô hình mới.

-- Chọn mức giá -- Giá, thấp tới cao Giá, cao xuống thấp